Kết qủa thực hiện dự án đầu tư “Phát triển giống dừa chất lượng cao giai đoạn 2009 – 2010”.

Chuyên mục

Cây dừa (Cocos nucifera L.) là một trong những cây lấy dầu lâu năm chủ yếu của vùng nhiệt đới được trồng rất phổ biến ở nhiều nước đang phát triển để cung cấp thực phẩm cũng như phục vụ cho mục đích công nghiệp.

Kết qủa thực hiện dự án đầu tư “Phát triển giống dừa chất lượng cao giai đoạn 2009 – 2010”.

Điều kiện tự nhiên và xã hội ở nước ta thuận lợi cho sự phát triển cây dừa từ đồng bằng sông Hồng cho đến đất mũi Cà Mau. Đặc biệt cây dừa phát triển tốt ở đồng bằng sông Cửu Long và ven biển miền Trung. Cây dừa có rất nhiều công dụng, chế biến ra nhiều loại sản phẩm. Quả dừa dùng làm thực phẩm như dừa tươi, cơm dừa khô, cơm dừa nạo sấy, mứt dừa, kẹo dừa, sữa dừa, bột sữa dừa, yaourt dừa, phomat dừa, dầu dừa ép tươi. Các sản phẩm khác từ thân, gié hoa dừa, gân lá dừa được sản xuất ra nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ có nhu cầu tiêu dùng và giá trị xuất khẩu cao. Vỏ dừa gồm có xơ dừa, mùn dừa và xơ vụn. Xơ dừa được dùng làm đệm lót, vật liệu xây dựng, xơ rối được dùng để dệt dây thừng, lưới sinh thái. Mùn dừa là chất giữ ẩm rất tốt được dùng trong sản xuất nông nghiệp và phân bón. Gáo dừa được sản xuất thành than thiêu kết, than hoạt tính dùng để lọc khí, tinh lọc cho nhiều sản phẩm tinh chế khác. Sản phẩm quả dừa được thu hoạch hàng tháng, góp phần ổn định thu nhập, tạo công ăn việc làm cho lao động nông nhàn thông qua các hoạt động chế biến các sản phẩm từ dừa. Do đó, cây dừa được gọi là “cây của cuộc sống” (The tree of life).
Ở Việt Nam, cây dừa không chỉ là cây có giá trị kinh tế mà còn là hình ảnh gắn liền với quê hương, đất nước và con người. Năm 2000, diện tích dừa của cả nước là 161.300 ha. Đến năm 2008, diện tích dừa chỉ còn 140.000 ha. Trong đó, diện tích dừa vùng đồng bằng sông Cửu Long chiếm trên 100.000 ha với các chủng giống đặc trưng như dừa Ta, dừa Dâu (dùng để lấy dầu), dừa Xiêm, dừa Ẻo (dùng để uống nước)....
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, nguồn nguyên liệu dầu thực vật ở nước ta vừa thiếu vừa phân tán. Điểm yếu nhất của ngành là trên 90% nguyên liệu phải nhập khẩu. Trong giai đoạn 2000 - 2008, nhập khẩu dầu của Việt Nam tăng trung bình 12,6%/năm, trong khi xuất khẩu ngày càng giảm dẫn tới ngành dầu đang nhập siêu khá lớn. Năm 2009, kim ngạch nhập khẩu đã trên 700 triệu USD. Dự báo, nếu không có chương trình phát triển vùng nguyên liệu cây có dầu hữu hiệu thì đến năm 2015 phải nhập khẩu trên 1 tỷ USD nguyên liệu dầu thô và hạt có dầu.
Theo tính toán, mức tiêu thụ dầu thực vật  bình quân đầu người của Việt Nam năm 2008 mới là 7kg/người, dự báo đến năm 2018 mức tiêu thụ bình quân đầu người là 15,2 kg/người và tăng 19,4 kg/người vào năm 2025. Như vậy, tiềm năng phát triển của ngành tại thị trường nội địa còn rất lớn. Chính những yếu tố thuận lợi nêu trên đã tạo điều kiện cho sự phát triển của cây dừa. Từ đó, người dân quan tâm, đầu tư chăm sóc dừa nhiều hơn và áp dụng nhanh các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.
Xuất phát từ thực tế sản xuất của ngành Dầu thực vật, Bộ Công Thương đã ra Quyết định số 4237/QĐ-BCT ngày 01 tháng 08 năm 2008 về việc phê duyệt dự án đầu tư “Phát triển giống dừa chất lượng cao giai đoạn 2009-2010”, thuộc chương trình Giống quốc gia. Mục tiêu của dự án là tuyển chọn, đánh giá và sản xuất các giống dừa mới có năng suất cao, phẩm chất tốt, phù hợp với điều kiện sinh thái và thực tiễn sản xuất. Tăng cường trang thiết bị và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ để nghiên cứu, chọn tạo và sản xuất các giống dừa mới từng bước xây dựng và hoàn thiện mô hình nhân giống dừa chất lượng cao phục vụ nhu cầu giống tốt cho các vùng trồng dừa trọng điểm.
Kế thừa các thành quả đạt được của dự án “Phát triển sản xuất giống dừa giai đoạn 2001-2005” và để tạo điều kiện đưa nhanh các giống dừa mới ra sản xuất, năm 2008, Bộ Công Thương và Viện Nghiên cứu Dầu và Cây có dầu đã ký Hợp đồng số 05.09.CTG/HĐ-KHCN về việc đặt hàng sản xuất và cung cấp dịch vụ sự nghiệp công nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ dự án đầu tư “Phát triển giống dừa chất lượng cao giai đoạn 2009-2010”. Sau 2 năm thực hiện, dự án đã hoàn thành khối lượng công việc theo kế hoạch được giao và đạt yêu cầu chỉ tiêu của sản phẩm khoa học đặt ra. Dự án đã góp phần quan trọng trong việc chọn tạo và phát triển giống dừa năng suất và sản lượng cao, phù hợp với công nghiệp chế biến đầu thực vật, phục vụ cho công nghiệp thực phẩm với các giống dừa chất lượng cao dùng để uống nước cũng như hoàn chỉnh kỹ thuật sản xuất dừa giống, nâng cao trình độ chuyên môn và quản lý của cán bộ trong ngành. Kết quả thực hiện dự án cụ thể như sau:
Tuyển chọn bổ sung được 3.000 cây dừa mẹ ở các tỉnh Bình Định, Bến Tre, Tiền Giang, Trà Vinh. Tạo được 3 tổ hợp dừa lai mới là ĐG 19 (Xiêm lửa x Ta xanh), ĐG 20 (Lùn vàng Sri Lanka x Ta xanh), ĐG 21 (Lùn vàng Mã Lai x San Ramon). Ba giống dừa lai mới này được chọn tạo từ những giống dừa địa phương có đặc tính ưu việt như dừa Ta xanh, dừa Xiêm lửa kết hợp với các giống dừa nhập nội ưu tú như dừa lùn vàng Mã Lai, lùn vàng Sri Lanka và dừa cao San Ramon. Sau khi được tạo ra, 3 giống dừa lai ĐG 19, ĐG 20, ĐG 21 được đưa đi trồng khảo nghiệm tại các tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, Trà Vinh và Kiên Giang, qui mô diện tích 6 ha. Bên cạnh đó, 28 ha vườn dừa giống gốc được tiếp tục đầu tư chăm sóc, đưa vào khai thác và hàng năm sản xuất 403.200 quả, tương đương 201.600 cây dừa giống để cung cấp cho 1.260 ha diện tích trồng lại và trồng mới. Ngoài ra, với qui trình nuôi cấy phôi dừa cải thiện đã nuôi cấy 2.000 phôi dừa Sáp, đưa ra vườn ươm 880 cây và 700 cây ở vườn trồng tại 2 Trung tâm của Viện Nghiên cứu Dầu và Cây có dầu. Dự án đã trồng mới và chăm sóc được 7 ha vườn dừa bố mẹ gồm các giống dừa cao Bago Oshiro, cao San Ramon, lùn vàng Mã Lai và lùn đỏ Mã Lai để làm vật liệu lai tạo giống dừa tại Trung tâm Sản xuất giống Trảng Bàng (Tây Ninh) và Trung tâm Dừa Đồng Gò (Bến Tr. Hơn nữa, dự án đã hoàn thiện hai qui trình nhân giống dừa, đó là qui trình tuyển chọn, nhân giống dừa lai và qui trình nhân giống dừa Dứa với kết quả tạo được giống dừa lai có tính chính thống cao, đạt 98% và tỉ lệ nảy mầm của giống dừa Dứa > 60%. Dự án đã tổ chức được 11 lớp đào tạo tập huấn về kỹ thuật phát triển giống dừa chất lượng cao cho 332 cán bộ khuyến nông, cán bộ nông nghiệp và nông dân tiêu biểu ở 7 tỉnh trồng dừa phía Nam. Thông qua các lớp đào tạo tập huấn, các qui trình nhân và chăm sóc giống dừa chất lượng cao được phổ biến cho các cán bộ địa phương trồng dừa. Ngoài ra, dự án đã tổ chức được 4 khóa đào tạo tập huấn về kỹ thuật và phương thức sản xuất, quản lý giống dừa chất lượng cao cho 15 cán bộ nghiên cứu và cán bộ quản lý trong thời gian 30 ngày tại các nước Malaysia, Indonesia và Mexico.
Từ nguồn vốn xây dựng cơ bản, dự án đã tiếp tục chăm sóc 4 ha vườn dừa mẹ lùn vàng Mã Lai, sản xuất được 546g phấn hoa Bago Oshiro, 254g phấn dừa Sáp, 7.200 quả dừa lai JVA1 và 2.300 quả dừa lai Dứa x Sáp cung cấp cho các địa phương có nhu cầu. Dự án xây dựng được 7ha mô hình trình diễn công nghệ cao giống dừa Sáp nuôi cấy phôi và giống dừa Dứa với trang bị 4,5 ha hệ thống tưới nhỏ giọt tại Trung tâm Dừa Đồng Gò (Bến Tre) và Trung tâm Sản xuất giống Trảng Bàng (Tây Ninh). Bên cạnh đó, dự án đã trồng mới được 13 ha và chăm sóc 12 ha vườn nhân giống dừa chất lượng cao gồm giống dừa Sáp nuôi cấy phôi, dừa Dứa, dừa Xiêm lục, dừa Ẻo, dừa Xiêm xanh, dừa Tam Quan. Dự án cũng đã tăng cường năng lực nghiên cứu, cung cấp thiết bị phục vụ đào tạo – thông tin cho các Trung tâm, đơn vị và bộ môn thuộc Viện.
 

Theo Báo cáo của Viện Nghiên cứu Dầu và Cây có Dầu