Kinh tế tuần hoàn – Góc nhìn từ vườn dừa

Chuyên mục

Nguyên lý căn bản của kinh tế tuần hoàn ở qui mô sản xuất nông hộ đã được phổ biến ở nước ta từ thập niên 70, đây được xem là bước đầu cơ bản của kinh tế tuần hoàn theo nghĩa đảm bảo sự luân chuyển vật chất tạo ra giá trị cho nền kinh tế gắn với tái tạo và khôi phục tài nguyên; đồng thời, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững hệ sinh thái.

(Ảnh: CTV)

Kinh tế tuần hoàn là mô hình kinh tế có tính tái tạo và khôi phục bao gồm các hoạt động thiết kế, sản xuất và dịch vụ nhằm đạt mục đích kéo dài tuổi thọ của vật chất, loại bỏ các tác động tiêu cực đến môi trường. Trong mô hình kinh tế tuần hoàn có áp dụng các quy trình tái sử dụng (Reuse) thông qua chia sẻ (Sharing), sửa chữa (Repair), tân trang (Refurbishment), tái sản xuất (Remanufacturing) và tái chế (Recycling) nhằm giảm đến mức tối thiểu số lượng tài nguyên sử dụng đầu vào và số lượng phế thải tạo ra, hạn chế ô nhiễm môi trường. Mô hình này được xem là phương thức khả thi để thực hiện 05 mục tiêu chung của phát triển bền vững là xóa nghèo; xóa đói, đảm bảo an ninh lương thực; đảm bảo các mô hình tiêu dùng và sản xuất bền vững; bảo vệ, tái tạo và khuyến khích sử dụng bền vững các hệ sinh thái; chống lại biến đổi khí hậu (Nguyễn Hoàng Nam, 2019).

Mỗi địa phương, vùng đất gắn liền với tên gọi, địa danh là những sản vật đặc trưng riêng, góp phần hình thành văn hóa con người, hình thức tổ chức và hệ sinh thái kinh tế nhất định. Thời gian qua, sản xuất nông nghiệp ở nước ta cơ bản thực hành theo mô hình kinh tế tuyến tính dựa trên cơ sở sử dụng các nguồn tài nguyên bản địa được hình thành từ những ưu thế về địa lý, thổ nhưỡng, đất đai và văn hóa. Tuy nhiên, trước tác động của biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn, việc xây dựng các mô hình sản xuất sạch theo chuỗi giá trị và gắn với bảo vệ môi trường đang được các địa phương quan tâm, nhất là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, xét đến các yếu tố nội hàm của mô hình kinh tế tuần hoàn thì phương thức canh tác, khai thác tài nguyên của ngành kinh tế liên quan đến cây dừa cơ bản tương thích với cách thức vận hành của mô hình kinh tế tuần hoàn nhưng chưa được nghiên cứu và hệ thống hóa một cách đầy đủ. Trong phạm vi bài viết này, tác giả giới thiệu khái quát về ngành kinh tế liên quan đến cây dừa ở 02 mức độ là kinh tế nông hộ và kinh tế ngành.

Theo thống kê của Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đến năm 2022, Việt Nam có khoảng 194.286 ha vườn dừa, tăng khoảng 49.627 ha so với năm 2011, sản lượng dừa 1,93 triệu tấn, tăng 728.619 so với năm 2011, cho sản lượng gần 1,6 triệu tấn/năm. Diện tích dừa Việt Nam chiếm 1,67% diện tích trên thế giới, 2,07% diện tích dừa châu Á. Bên cạnh đó, sản lượng dừa Việt Nam chiếm 2,93% sản lượng dừa thế giới và 3,45% sản lượng dừa châu Á. Theo ICC, dừa Việt Nam có năng suất và chất lượng cao nhất trên thế giới.

Trong đó, Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích khoảng 171.013 ha, chiếm gần 87,9% diện tích dừa cả nước; sản lượng dừa của Việt Nam tập trung ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long (chiếm 85,5% sản lượng dừa cả nước).Riêng Bến Tre có diện tích trồng dừa 77.232 ha, chiếm 39,7% tổng diện tích dừa cả nước. Các nghiên cứu gần đây đều khẳng định vị thế trung tâm của Bến Tre trên bản đồ ngành dừa của cả nước và khu vực, do đó dừa là cây công nghiệp có vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển kinh tế của tỉnh Bến Tre. Diện tích trồng dừa trên địa bàn tỉnh tăng nhanh từ 51.560 ha năm 2010 lên 77.232 ha năm 2022, cho sản lượng trên 612.500 tấn; chiếm 0,6% diện tích dừa thế giới. Tại Bến Tre, hiện có gần 200.000 hộ dân trồng dừa, thu nhập từ dừa chiếm 50% thu nhập của hộ.

Theo phương thức canh tác truyền thống (canh tác tuyến tính) sẽ dẫn đến sự thoái hóa đất do quá trình canh tác can thiệp quá mức vào tự nhiên. Theo Nguyễn Tiến Khai (2010), kết quả khảo sát cho thấy đa số nông hộ ở Bến Tre đều bổ sung phân bón vô cơ (chủ yếu các chất đa lượng N-P-K) cho vườn dừa ở mức tương đương và cao hơn so với khuyến cáo của ngành chuyên môn dẫn đến đất bị nhiễm quá nhiều chất hóa học, đất đai bị chai cứng, bạc màu, giảm độ pH đất, đất bị chua hóa, tích tụ một số kim loại năng trong đất. Hệ vi sinh vật có lợi trong đất bị tiêu diệt, làm mất cân bằng sinh học và môi trường đất bị khai thác cũng như tàn phá triệt để. Bên cạnh đó, cây trồng được nuôi dưỡng trên những mảnh đất này chứa quá nhiều tồn dư kim loại nặng, hóa chất thuốc hóa học nên sẽ đi ngược lại với các tiêu chí thực phẩm sạch hiện nay.

Tỷ lệ hộ có bón phân cho vườn dừa hàng năm

(Nguồn: Trần Tiến Khai và cộng sự, 2010)

Ngược lại, canh tác hữu cơ trên vườn dừa chú trọng đến duy trì dinh dưỡng trong đất và an toàn thực phẩm hơn. Bằng việc tận dụng phân hữu cơ, phân xanh, phân compost hoặc các bộ phận của chính cây trồng. Từ kết quả khảo sát ở cùng nghiên cứu trên đã chỉ ra rằng có 35,2% nông hộ sử dụng phân chuồng để bón cho vườn dừa.

Tỷ lệ hộ có bón phân cho vườn dừa hàng năm

(Nguồn: Trần Tiến Khai và cộng sự, 2010)

Nguyên lý căn bản của kinh tế tuần hoàn ở qui mô sản xuất nông hộ đã được phổ biến ở nước ta từ thập niên 70, thông qua các mô hình canh tác liên hoàn vườn – ao - chuồng (VAC) hay vườn – ao - chuồng - ruộng (VACR); đây được xem là bước đầu cơ bản của kinh tế tuần hoàn theo nghĩa đảm bảo sự luân chuyển vật chất tạo ra giá trị cho nền kinh tế gắn với tái tạo và khôi phục tài nguyên; đồng thời, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững hệ sinh thái. Trong vườn dừa, thông qua hoạt động thu gom các bộ phận của cây dừa như tàu lá dừa, vỏ xơ dừa kết hợp với phân gia súc, gia cầm bằng hình thức oai ủ, nông hộ có thể sản xuất thành công phân bón hữu cơ hoặc với phương pháp nhiệt hóa (đốt) các cơ chất khô của cây dừa, gáo dừa thành tro để chuyển hóa hữu cơ thành các chất đa vi lượng tái cung cấp dinh dưỡng cho vườn cây.

Các hình thức sử dụng phế phẩm, phụ phẩm từ dừa

(Nguồn: Murali Gobal và cộng sự, 2020)

Xét về góc độ kinh tế ngành, cây dừa là cây trồng quan trọng trong nông nghiệp nhưng cũng tạo ra nguồn nguyên liệu chủ yếu cho ngành công nghiệp của địa phương và tạo ra sản phẩm cho ngành du lịch, dịch vụ, góp phần hình thành nét văn hóa đặt trưng và tăng giá trị ngành dừa tạo sự khác biệt của nền kinh tế tỉnh Bến Tre. Từ nguyên liệu của cây dừa Bến Tre, hiện nay đã sản xuất được nhiều loại sản phẩm từ thông dụng đến cao cấp; đồng thời, cũng tạo ra sự luân chuyển hữu cơ, phục hồi và tái tạo tài nguyên đất trên địa bàn tỉnh.

Khởi nguồn là cây dừa được canh tác để tạo ra nông sản là trái dừa mang lại giá trị kinh tế cho nông hộ; hai loại hình khai thác trái dừa ở Bến Tre là dừa xiêm xanh uống nước và dừa nguyên liệu. Hiện nay trên toàn tỉnh có 200.000 hộ trồng dừa với diện tích bình quân 0,4 ha/hộ. Theo kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2016 của Cục Thống kê tỉnh Bến Tre, ước tính đến năm 2016 có khoảng 40% nông dân có hoạt động liên quan đến cây dừa, thu nhập từ dừa chiếm 72% thu nhập của nông hộ. Sản phẩm chính của trái dừa mang lại giá trị kinh tế chủ yếu là nước dừa và cơm dừa.

Giai đoạn sơ chế và chế biến với đa dạng các doanh nghiệp khác nhau, tạo ra hàng trăm sản phẩm từ dừa. Riêng chế biến nước dừa (thạch dừa, nước dừa đóng hộp, mặt nạ dừa), chiếm 25,79% tổng số doanh nghiệp sản xuất công nghiệp của tỉnh, giải quyết việc làm cho hơn 9.500 lao động. Các nguyên lý nội hàm của mô hình kinh tế tuần hoàn được thực hành rất hiệu quả trong ngành công nghiệp chế biến dừa. Từ nguyên liệu cơm dừa qua công đoạn vắt ép lấy nước cốt dừa để làm nguyên liệu sản xuất sữa dừa được sử dụng rộng rãi trong chế biến ẩm thực, phục vụ ngành du lịch và dịch vụ (giai đoạn 2016-2020 sản xuất trên 320 triệu lít); làm kẹo dừa, đặc trưng của Bến Tre; phần phế phẩm vốn bị loại bỏ đi trước kia sẽ được kết hợp với các phụ liệu tạo ra sản phẩm bánh hoa dừa với nhiều hương vị tự nhiên, đặc trưng định hình thương hiệu riêng biệt, cho giá trị cao (Recycling, Refurbishment).

Đối với công nghệ tách dầu trước kia, phần vỏ lụa (lớp vỏ giữa cơm dừa và gáo dừa) bị thải bỏ từ công đoạn gọt vỏ lụa của trái dừa sơ chế cơm dừa, nhưng với công nghệ ly tâm không gia nhiệt, phần vỏ lụa và phần cơm dừa bám dính ở vỏ lụa này được thu gom để tiếp tục thu hồi lượng dầu dừa còn sót lại (Reuse, Remanufacturing); kết thúc công đoạn này, xác bã sẽ trở thành nguyên liệu đầu vào của các cơ sở chế biến thức ăn chăn nuôi gia súc và thủy sản. Ngoài ra, từ nguyên liệu là dầu dừa, các cơ sở chế biến đã ứng dụng khoa học công nghệ để sản xuất thành công nước rửa tay từ dầu dừa bằng phương pháp xà phòng hóa kết hợp tinh dầu tạo ra sản phẩm đạt yêu cầu về tẩy rửa, cảm quan, có nguồn gốc tự nhiên (Sharing).

Trước kia, phần vỏ bên ngoài trái dừa (khô) không được tái sử dụng, gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường tại các khu vực sản xuất, chế biến dừa, dẫn đến hiện tượng tắt nghẽn các lưu vực sông do chỉ và mụn dừa thải ra. Tuy nhiên, với công nghệ se chỉ xơ dừa và nén mụn dừa, gắn với sản xuất phân bón hữu cơ thì giá trị của sản phẩm từ dừa nâng lên gấp nhiều lần. Trên cơ sở ứng dụng công nghệ tách chất tanin, kết hợp hợp chất vi sinh EM phối trộn với mụn dừa, Bến Tre đã sản xuất thành công sản phẩm đất sạch từ mụn dừa, làm phân bón hữu cơ hoặc cơ chất làm giá thể góp phần tái phục vụ trong ngành nông nghiệp, trả lại sự màu mỡ cho đất. Shiva Kumar Udayana (2017) đã nghiên cứu và phân tích giá trị của mụn (chỉ) sơ dừa trong việc tái tạo dinh dưỡng cho đất. Theo đó, mụn chỉ xơ dừa phù hợp với các khu vực khô hạn do khả năng giữ ẩm cao khoảng 40% với đặt tính về cấu trúc vi mô (khoang trống của tế bào) giúp hấp thụ và lưu trữ nước và chất dinh dưỡng. Khi thêm xơ dừa vào đất sét, nó làm thay đổi độ dính của đất sét và tăng cường tính chất thoát nước của đất. Ứng dụng xơ dừa làm cải tạo đất về lâu dài có thể làm giảm mật độ khối, tăng khả năng giữ nước và cải thiện hàm lượng carbon hữu cơ của đất. Ngoài ra sự phân hủy lõi xơ dừa tạo ra các hợp chất humic từ các hợp chất lignin và nó cải thiện khả năng hấp phụ chất dinh dưỡng. Riêng đối với phần gáo dừa, trước kia được các cơ sở chế biến than hóa để tạo thành sản phẩm than thiêu kết và than hoạt tính phục vụ cho ngành hóa lọc, một phần cho công nghệ thực phẩm (lạc rang bao hắc tử,...) và đặc biệt là lĩnh vực thủ công mỹ nghệ, tạo ra sản phẩm có giá trị cao.

Ngoài ra, cây dừa và các sản phẩm từ dừa còn được sử dụng trong một số lĩnh vực khác, cơ bản đáp ứng mô hình của kinh tế tuần hoàn như: xây dựng, kỹ nghệ chế tác, mỹ phẩm,... có khả năng thu hồi và tái chế. Các sản phẩm từ dừa phục vụ cho xây dựng rất đa dạng từ cột trụ, xà gỗ, ván gỗ các loại, ván lót sàn nhà; vách ngăn, vật liệu cách âm; tấm lợp trần nhà, vật liệu trang trí,…các sản phẩm chế tác từ gỗ dừa và gáo dừa rất phong phú từ đồ nội thất, các sản phẩm nhà bếp đến khăn, giấy có khả năng thay thế sản phẩm được sản xuất bằng vật liệu nhựa, túi nilon như: bàn, ghế, tủ, giường gỗ dừa; các loại tô, dĩa, chén, đũa, muỗn, vá, sạn, nỉa, dao, chày cối, ống đựng đũa, gáo múc nước, lọ hũ đựng tăm, giá treo đồ, móc phơi quần áo, giỏ xách từ cọng dừa, lồng đèn, gạc tàng thuốc lá…Trong đó, sản phẩm giấy dừa và ống hút dừa được đánh giá cao. Giấy xơ dừa có thể làm giấy 3D xuyên sáng, giấy mỹ thuật, bao bì thực phẩm - mỹ phẩm, túi xách, giỏ xách giấy, nguyên liệu cho sản xuất hoa giấy… Tranh giấy dừa mang tính mỹ thuật độc đáo nhờ đặc tính xuyên sáng của giấy, phù hợp cho lĩnh vực trang trí nội thất cao cấp. Ống hút là sản phẩm được sản xuất từ nước dừa, thân thiện với môi trường và an toàn với người sử dụng, góp phần vì cộng đồng bảo vệ môi trường, hạn chế rác thải nhựa.

Sản xuất nông nghiệp vẫn còn chú trọng vào tăng năng suất, chưa thật sự quan tâm đến lượng dư thừa của các chất đầu vào, chưa quan tâm sử dụng phân bón hữu cơ và các giải pháp bồi dưỡng, khôi phục tài nguyên hiệu quả; sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún. Diễn biến phức tạp của biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn, ảnh hưởng đến hành vi canh tác của người dân và nhu cầu nguyên liệu của doanh nghiệp. Ngoài ra, ý thức vận dụng kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, sử dụng và tiêu thụ sản phẩm của người dân, doanh nghiệp chưa cao, chỉ chú trọng về lợi ích kinh tế, chưa quan tâm đến sự cạn kiệt tài nguyên và mức độ ô nhiễm môi trường.

Chính quyền địa phương tập trung xây dựng cơ chế phát triển doanh nghiệp nhưng chưa có chính sách cụ thể khuyến khích doanh nghiệp thực hành mô hình kinh tế tuần hoàn; việc xây dựng chuỗi giá trị nông sản còn theo mô hình kinh tế tuyến tính, chưa xét đến yếu tố nội hàm của mô hình kinh tế tuần hoàn.

Kiến nghị các giải pháp hữu hiệu hình thành mô hình kinh tế tuần hoàn trong ngành công nghiệp dừa

1-  Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức: tuyên truyền cho người dân, doanh nghiệp, cán bộ công chức, viên chức và người lao động hiểu về kinh tế tuần hoàn; thay đổi nhận thức của người dùng trong chọn lựa sản phẩm, hàng hóa; xây dựng mô hình mẫu ở quy mô nông hộ, doanh nghiệp và ngành, lĩnh vực; tiếp tục giảng dạy trong các cấp học.

2-  Nhóm giải pháp về chính sách: Trung ương và địa phương có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thực hành kinh tế tuần hoàn; các chế tài đảm bảo thực thi các nguyên tắt của kinh tế tuần hoàn; xây dựng khung tiêu chí chuẩn để đánh giá và xếp loại doanh nghiệp; phát triển vùng nguyên liệu dừa ở các địa phương tiềm năng.

3-  Nhóm giải pháp về nguồn lực: đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của sự chuyển đổi; tăng cường đổi mới sáng tạo, tiếp cận và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ phục vụ sản xuất; quy tụ chuyên gia hoạch định chiến lược, lộ trình xây dựng mô hình kinh tế cụ thể, phù hợp từng giai đoạn phát triển của địa phương.

4-  Nhóm giải pháp liên kết: Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, mô hình liên kết 4 nhà “Nhà nông – Nhà nước – Nhà khoa học – Nhà doanh nghiệp" đem lại hiệu quả rất thành công. Nội dung liên kết gồm: nghiên cứu giải pháp tái chế, tái sử dụng sản phẩm; tạo sản phẩm mới; phương thức canh tác; thúc đẩy doanh nghiệp phát triển bền vững; phát triển chuỗi giá trị gắn với chuyển đổi số; liên kết để nghiên cứu sâu và xây dựng quy trình vận động tuần hoàn của kinh tế dừa hướng đến hệ kinh tế sinh thái vườn dừa.

5-  Nhóm giải pháp nâng cao giá trị gia tăng ngành dừa: Phát triển du lịch nông nghiệp gắn với Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, Chương trình OCOP (Vườn dừa tham quan – dã ngoại, vườn dừa trải nghiệm – nghỉ dưỡng) - Phát triển hạ tầng vùng du lịch nông nghiệp; xây dựng thương hiệu, quá bảng bá các sản phẩm du lịch nông nghiệp tại vùng dừa; thu hút đầu tư vào du lịch nông nghiệp./.

Duy Nguyễn – Khánh Đoan

Nguồn: snnptnt.bentre.gov.vn