Philippines: Hiệu suất xuất khẩu các sản phẩm dừa phi truyền thống hàng đầu trong tháng 6

Dữ liệu từ Cơ quan Thống kê Philippines cho thấy có 18 sản phẩm dừa không truyền thống đã ghi nhận doanh thu trên 100.000 đô la Mỹ trong tháng 6 năm nay, nhiều hơn một sản phẩm so với tháng trước. Chín sản phẩm hàng đầu đã ghi nhận doanh thu trên 1.000 triệu đô la Mỹ trong tháng, kém hai sản phẩm so với doanh thu hàng triệu đô la của tháng trước. Các sản phẩm này là nước dừa, sản phẩm chưng cất axit béo, xà phòng vệ sinh/tắm, nước dừa cô đặc, glycerin, dầu dừa khác, dầu dừa nguyên chất, dầu dừa hydro hóa, bột sữa dừa. Các sản phẩm này cũng nằm trong danh sách 9 mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của tháng trước ở các thứ hạng khác nhau.
Nước dừa: là mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của tháng này so với tháng trước, đạt 10,282 triệu đô la Mỹ từ giao dịch 11.737 tấn. Khối lượng giảm 9,9% so với tháng 6 năm ngoái ở mức 13.025 tấn. Hoa Kỳ là điểm đến chính chiếm hai phần ba gói (66,6%) hoặc 7.822 tấn, theo sau là Vương quốc Anh với 2.347 tấn (20,0%). Các điểm đến khác là Canada với 935 tấn (8,0%), Trung Quốc 215 tấn, Hà Lan 191 tấn và tám nước khác với lượng tiêu thụ từ 1-84 tấn, cụ thể là Hồng Kông, Singapore, New Zealand, Pháp, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Đài Loan, Úc.

Sản phẩm chưng cất axit béo:  Mặt hàng xuất khẩu lớn thứ hai với doanh thu là 3,797 triệu đô la Mỹ từ lô hàng 4.588 tấn, tăng vọt 378,2% so với chỉ 959 tấn của một năm trước. Trung Quốc gần như là thị trường độc quyền chịu trách nhiệm cho 91,8% hoặc 4.210 tấn. Các thị trường khác là Ấn Độ với 222 tấn (4,8%) và Hàn Quốc với 156 tấn (3,4%).

Xà phòng tắm & vệ sinh: Đứng thứ ba là với doanh thu 2,550 triệu đô la Mỹ sau khi bán được 786 tấn, tăng 18,1% so với năm ngoái là 666 tấn. Các thị trường nhập khẩu chính là Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất với lượng tiêu thụ là 205 tấn (26,1%), Indonesia là 160 tấn (20,4%) và Singapore là 113 tấn (14,4%). Các nước nhập khẩu khác là Nigeria với 94 tấn (11,9%), Thái Lan 58 tấn (7,3%), Việt Nam 38 tấn (4,9%), Ả Rập Saudi 24 tấn, Malaysia 20 tấn, Kuwait 19 tấn và hàng chục nước khác với đơn đặt hàng hạn chế trong khoảng 0,16-15 tấn. Nhóm sau bao gồm Nhật Bản, Qatar, Vương quốc Anh, Úc, Đài Loan, New Zealand, Hà Lan, Canada, Papua New Guinea, Samoa thuộc Mỹ, Hoa Kỳ, Fiji.

Nước dừa cô đặc (COCONUT WATER CONCENTRATE) Một biến thể nước dừa khác, đã lọt vào top bốn với tổng doanh thu xuất khẩu là 2,344 triệu đô la Mỹ, giá trị giao hàng 583 tấn. Không có hoạt động xuất khẩu nào trong cùng tháng năm ngoái. Trung Quốc xử lý phần lớn doanh nghiệp này với 492 tấn (84,3%). Phần còn lại thuộc về Thái Lan với 72 tấn (12,3%), Indonesia với 18 tấn (3,2%) và 1 tấn còn lại thuộc về Peru.

Glycerin: Chiếm vị trí thứ năm, với tổng sản phẩm được bán là 2.439 tấn với giá 2,340 triệu đô la Mỹ. Lượng mua trong tháng này tăng vọt 43,2% so với 1.704 tấn của năm trước. Trung Quốc dẫn đầu với 1.386 tấn (56,8%), theo sau là Nhật Bản với 807 tấn (33,1%), Malaysia với 128 tấn (5,2%), Canada với 86 tấn (3,5%) và Hàn Quốc với 32 tấn.

Dầu dừa khác: Danh mục xếp thứ sáu, với doanh thu 2,292 triệu đô la Mỹ từ các đơn hàng 945 tấn. Lượng hàng tháng này ghi nhận mức thiếu hụt 9,5% so với 1.044 tấn của năm ngoái. Điểm đến chính là Hoa Kỳ với 261 tấn (27,6%), tiếp theo là Indonesia với 190 tấn (20,1%), Trung Quốc với 116 tấn (12,3%), Mexico với 79 tấn (8,3%), Canada với 66 tấn (7,0%), Vương quốc Anh với 63 tấn (6,7%), Nhật Bản với 33 tấn (3,4%), Litva với 22 tấn (2,3%), Cộng hòa Dominica với 20 tấn và tám nước khác chỉ tiếp nhận một lượng hàng hạn chế từ 4-17 tấn, cụ thể là New Zealand, Pháp, Brazil, Úc, Đài Loan, Singapore, Nam Phi, Malaysia.

Dầu dừa nguyên chất: đứng đầu trong bảy nước. Lượng hàng xuất khẩu đạt 696 tấn, giảm 76,3% so với năm ngoái, đạt 2.932 tấn và trị giá 1,800 triệu đô la Mỹ. Hoa Kỳ là điểm đến hàng đầu với 341 tấn (49,0%), tiếp theo là Trung Quốc với 129 tấn (18,5%), Hà Lan 102 tấn (14,6%). Các lô hàng nhỏ hơn được chuyển đến Brazil với 58 tấn (8,3%), Đức 36 tấn (5,2%), Ý 20 tấn (2,9%), Úc 8 tấn và Israel 2 tấn.

Dầu dừa Hydro hóa: Vị trí thứ tám thuộc về với doanh số 1.630 tấn đạt 1,794 triệu đô la Mỹ, giảm 26,3% so với năm ngoái là 2.212 tấn. Hà Lan dẫn đầu thị trường với 490 tấn (30,1%), tiếp theo là Hoa Kỳ với 323 tấn (19,8%), Úc với 272 tấn (16,7%), Trung Quốc với 186 tấn (11,4%), Hàn Quốc với 165 tấn (10,1%), Đài Loan với 122 tấn (7,5%). Các đơn đặt hàng hạn chế được thực hiện bởi Canada với 44 tấn, Vương quốc Anh với 23 tấn và Nhật Bản với 6 tấn.
Bột sữa dừa: Tạo ra 1,283 triệu đô la Mỹ để giữ vị trí thứ chín. Khối lượng giao dịch ở mức 571 tấn tăng 218,6% so với 179 tấn của năm trước. Hoa Kỳ là nước nhập khẩu hàng đầu với 243 tấn (42,6%). Theo sau là Trung Quốc với 142 tấn (24,8%), Nhật Bản với 91 tấn (15,9%), Mexico với 46 tấn (8,1%), Hàn Quốc với 23 tấn (4,0%), và Ý và Pháp mỗi nước 13 tấn.
Hoàn thành top 10 sản phẩm xuất khẩu phi truyền thống là COCO MEAT CHIPS đóng góp 945.946 đô la Mỹ vào tổng thu nhập. Tổng sản phẩm bán ra là 406 tấn, giảm 44,6% so với mức 733 tấn của năm trước. Hoa Kỳ gần như là nước nhập khẩu duy nhất với 367 tấn (90,4%). Những người mua khác là Hàn Quốc với 13 tấn, Việt Nam với 13 tấn, Ả Rập Xê Út với 11 tấn và Hà Lan với 3 tấn.

Tám mặt hàng xuất khẩu hàng đầu tiếp theo là Nước cốt dừa, Thạch dừa, Dầu diesel sinh học, Makapuno, Dầu axit dừa, Mụn dừa/Bụi dừa, Bột dừa, Xơ dừa & Sản phẩm xơ dừa. Chi tiết sẽ có trong ấn bản UWB tuần tới.

Nguồn: ucap.org.ph